a. Cách chức, thôi việc:
Cung Quan
vô chính diệu cần có Tuần, Triệt trấn thủ tại đó mới hay. Bằng
không thì dễ sa sút. Nếu chính tinh xung chiếu mà sáng sử thì còn
khá, ngược lại nếu mờ tối thì bất lợi.
Thiên Tướng gặp Tuần, Triệt thì dù được đắc địa, quan chức không những bị truất giáng mà
còn dễ chết thảm khốc. Tướng Quân gặp Tuần, Triệt cũng lâm vào họa
hại như thế.
Không, Kiếp: chỉ sự thăng trầm, lên voi xuống chó. Hãm địa thì càng nguy,
chắc chắn phải ít ra một lần mất chức nhục nhã, bị đổi đi xa vì
kỷ luật, chưa kể những hung họa dẫy đầy, dễ chết vì binh lửa, chiến
nạn. Như vậy, sự gián đoạn chức vụ có thể bắt nguồn từ hai nguyên
nhân bị chết hoặc bị cách chức. Còn những họa nhỏ khác như vất vả,
đè nén, đố kỵ thì khỏi kể. Tai họa công
vụ của Không Kiếp cũng còn do tật xấu của chính mình. Người
có Không Kiếp có lá số xấu thường xử xự bằng thủ đoạn, bá đạo,
ám muội, phi pháp, kiểu như tham lận, cướp của, hối lộ, tham nhũng,
buôn lậu, biển thủ đưa đến việc mất chức.
Thiên Hình, Thiên Tướng, Tuần,
Triệt: Hình hãm địa ở Quan có
nghĩa gián đoạn công vụ vì bị ngục tụng, những tai bay vạ gió làm
cho viên chức phải bị liên lụy trong quan trường, chẳng hạn như bị
khiển trách, bị điều tra, bị ngưng chức, bị truy tố, bị sa thải. Nếu
đi với sát tinh, dễ bị hình tù vì Thiên Hình chỉ hình phạt, bằng
kỷ luật hay bằng tòa án. Cho dù Hình gặp Tuần hay Triệt, ngục tụng
cũng khó tránh. Cũng đồng nghĩa đó nếu Hình đi với Thiên Tướng ở
cung Quan. Nếu có thêm Thiên Khôi, sẽ có thể bị mất đầu. Những họa nói trên sẽ tránh
được nếu đương sự bị đau phải mổ hay bị chết nhưng dù sao, Tướng
Hình Khôi ở Quan bao giờ cũng đập nặng vào chức vụ: Thiên Hình ở
Quan là hình thương đến công vụ. ý nghĩa này vẫn tồn tại nếu Hình
đi chung với Liêm Trinh; với Quan Phù, Thái Tuế, Quan Phủ; với Hóa Kỵ;
với Cự Môn hãm địa ...
Hóa Quyền, Thiên Hình hay
Tuần, Triệt: Hóa Quyền tượng trưng cho
quan tước, gặp Hình hay Tuần, Triệt thì có gián đoạn công vụ, thông
thường là bị bãi nhiệm, bị đổi chỗ hoặc phải thôi việc. Nếu có
chức phận cũng không giữ được lâu bền, phải từ bỏ vì một nguyên nhân
nào đó. Những sao đồng nghĩa với Hóa Quyền mà gặp một trong ba sao
này cũng rơi vào tai họa tương tự. Đó là các bộ sao: Quốc ấn, Thiên
Hình hay Tuần, Triệt; Phong Cáo, Thiên Hình hay Tuần, Triệt; Thái Dương hãm,
Thiên Hình hay Tuần, Triệt. Thông thường, ý nghĩa mất việc chỉ rõ
ràng nếu bộ sao này đóng đồng cung ở Quan, nếu chỉ hội chiếu thì
việc mất chức không rõ ràng lắm, có thể là tự ý thôi việc. Một số
quý tinh khác như Thai Phu, Đường Phù gặp
Tuần, Triệt hay Hình không đến nỗi nặng lắm, có thể có nghĩa như
hụt thăng trật, hụt huy chương ...
Tuế, Đà, Kỵ: hội ở cung Quan chỉ mọi sự xui xẻo liên tiếp do sự tố cáo, chỉ
trích, vu khống, xuyên tạc, đố kỵ, cạnh tranh làm cản trở bước tiến
quan lộc, từ đó có thể đưa đến sự thôi việc, sự thay đổi công việc.
Vì có Đà La, bộ sao này cho thấy có sự tranh cãi, gây lộn, ăn thua,
khiếu nại, có khi ẩu đả giữa đồng nghiệp, xô xát với cấp chỉ huy
để rồi cuối cùng gián đoạn công vụ.
b. Đè nén, đố kỵ
Hóa Kỵ: chỉ đó kỵ, ganh ghét, cạnh tranh bằng thủ đoạn gièm pha, thêm
bớt, thọc gậy. Hóa Kỵ là người bị nghi ngờ, bị theo dõi, bị để ý.
Đi chung với Phục Binh, sự đố kỵ có tính cách ám hại, tầm thù,
chẳng những bằng lời nói mà còn bằng hành động. Đi với Thiên Hình,
Hóa Kỵ dễ sinh quan tụng, thưa gửi, khiếu nại, điều trần, cảnh cáo,
khiển trách, ẩu đả lẫn nhau. Chỉ trừ khi đi với Thanh Long mới đẹp.
Thiên Không: chỉ phần tử lưu manh trong công/tư sở, chuyên môn phá hết kẻ này
đến người khác, thọc gậy bánh xe, cản trở bước tiến của đồng
nghiệp với ác tâm, có tà ý, âm mưu phá hoại. Bị Thiên Không, viên
chức khó lòng ngóc đầu lên nổi, bị khép trong kỷ luật, khống chế,
mình làm mà thiên hạ hưởng, bị cấp trên hay cấp ngang cướp công.
Đà La, Kình Dương: chỉ sự ngăn trở quan trọng vì ganh đua, cạnh tranh gay gắt. Tại vị
trí hãm địa, đương số là nạn nhân của chia rẽ, phân hóa trong nghề
nghiệp, làm việc nặng nhọc, gánh trách nhiệm mà bị tội vạ, hiểu
lầm, khiển phạt. Những bạc bẽo của nghề thường do hai sao này quảng
diễn.
Cự Môn hãm địa: đồng nghĩa với Hóa Kỵ nhưng nặng nề hơn. Con người Cự Môn cũng
như Hóa Kỵ lúc nào cũng bất mãn, mưu tìm sự canh cải theo ý mình,
không bảo thủ mà đấu tranh thay đổi thành phần bảo thủ. Nếu đắc địa
thì việc đấu tranh có cơ hội thành công, trái lại, Cự Kỵ sẽ là nạn
nhân của thái độ cấp tiến của mình, gánh lấy hậu quả của sự kìm
chế, đè nén, cô lập. Đi chung với các sao ám khác như Thiên Không,
Kình Dương, Đà La, Phục Binh, là những người hay kết bè kết đảng để
đấu tranh. Nếu có sát tinh đi kèm thường có đổ máu, hình ngục, thanh
toán, trả thù qua lại.
Tuế, Đà, Kỵ: tượng trưng cho những xui xẻo liên tiếp trong quan trường, trong
nghề nghiệp, trong đó có sự đè nén, thị phi, gièm pha, đố kỵ.
Đại Hao, Tiểu Hao: đi chung với quyền, quý, dũng tinh, Nhị Hao thường chỉ sự sa sút
hậu thuẫn, sự sút kém tín nhiệm, sự mất mát thế lực. Viên chức có Song Hao ở Quan, ngoài
ý nghĩa hư danh, hư quyền, bị tổn thương uy tín, thất sủng, từ đó
làm việc gì cũng không lâu bền, ở với ai cũng khó hòa hợp, có thể
ngồi xơi chơi nước hay được giao những công việc chạy vặt, liên lạc,
kém quan trọng. Về mặt tâm lý, Đại Tiểu Hao ở Quan còn chỉ những
người đứng núi này trông núi nọ, bất mãn không khí đang sống, lúc
nào cũng chực hờ, tìm chỗ tốt, chỗ bở, hay thay đổi chức vụ mà
chũng chẳng hiển vinh gì bao nhiêu. Tính tình của Nhị Hao thường bất
nhất, không bền chí, không kiên tâm tiến
thủ trên cái gì đã có mà chỉ lo đổi chỗ để tìm lợi lộc, tìm thăng
tiến. Nếu được đắc địa thì Nhị Hao có lợi hơn về mặt tài lộc, kinh
nghiệm.
Thiên Khốc, Thiên Hư hay Tang
Môn, Bạch Hổ: Trừ phi đắc địa ở Tý Ngọ,
Khốc Hư ở Quan biểu tượng cho những ưu tư, lo buồn, hoang mang, sợ sệt
khi hành nhiệm. Ngoài ra, còn có đặc tính bị khinh ghét, chê bai vì
bất lực, bất hòa. Người có Khốc Hư ở Quan không thoải mái trong công
việc, phải quan tâm lo lắng nhiều mối, vì nhiều lý do, có khi phải
gánh chịu nhục nhã, xấu hổ
bởi tai tiếng, bởi thị phi. Nếu đắc địa, các sao này chỉ uy tín và
hoạt động chính trị cũng như năng tài hùng biện, giáo khoa, tâm lý
chiến.
Thiên Mã, Tràng Sinh ở Hợi: Thiên Mã thông thường chỉ tài năng. Gặp thêm Tràng Sinh là có cơ
may tiến đạt. Nhưng hiềm vì ở cung Hợi cho nên năng tài này bị chìm
trong bóng tối. Đây là hạn người kém may, không có cơ hội thi thố
được, hoặc chỉ có danh mà không có quyền, chỉ có hư vị hơn là thế
lực, hoặc bị đặt vào chỗ tượng trưng để lợi dụng uy tín chứ không
phải để hành sử quyền binh. Công lao của Mã Sinh ở Hợi thường chỉ ở
trong bóng mờ, hay bị người khác lấn át. Nếu gặp Phục Binh, ngụ ý người
có tài mà bị ruồng bỏ, bị gièm xiểm, bị đào thải ...
Thiên Mã, Tuần, Triệt: không chỉ tai nạn xe cộ mà chỉ sự bất dụng, sự thiếu may mắn
trong nghề nghiệp, làm cái gì cũng thất bại, tai ương, xui xẻo khiến
cho thượng cấp mất dần tín nhiệm, không dám giao phó đại sự. Cho nên,
công danh của Mã, Tuần, Triệt tương đối nhỏ.
Lộc Tồn, Tuần, Triệt: Lộc Tồn cũng chỉ tài năng như Thiên Mã, đặc biệt là tài tổ
chức, quyền biến, khai sơn phá thạch, có nhiều sáng kiến giải quyết
mọi việc. Gặp Tuần Triệt, tài năng, cơ may bị tiêu tán. Đó là trường
hợp những người bị thiểu dụng, bị uổng dụng, bị sai dụng.
Thiên Tài: đi chung với Nhật, Nguyệt sáng sủa sẽ làm mất đi sự tốt đẹp,
làm giảm ánh sáng của Nhật, Nguyệt. Đó là trường hợp tài năng
thiếu cơ hội.
Tại cung Quan vắng bóng những sao trợ quyền, những sao may mắn thì
tài năng thường cô độc, thiếu người công lực, nâng đỡ, thiếu may mắn
của thời cuộc. Đó là những sao Ân
Quang, Thiên Quý, Tả Phù, Hữu Bật, Thiên Quan, Thiên Phúc, Thanh Long-Lưu
Hà, Thanh Long-Hóa Kỵ, Thiên Mã-Tràng Sinh (trừ ở Hợi), Bạch Hổ-Phi
Liêm, Tràng Sinh-Đế Vượng, Thiên Hỷ-Hỷ Thần, Tứ Linh, Tam Hóa ...
4. Họa
cho tài sản: thường hay xuất hiện ở hai cung Điền và Tài, ở
những cung chiếu Điền (Tử, Tật, Bào), chiếu Tài (Phúc, Quan, Mệnh),
cung Thân và các cung Hạn.
a. Những đại họa tài sản:
Thiên Không: hậu quả của Thiên Không trên tài sản cũng gần tương đương như Địa
Không, nhất là khi tọa thủ ở Tài, Điền và nhất là khi gặp thêm hạn
xấu. Hội với Địa Không, Địa Kiếp, sức tác họa càng dữ thêm, có hại
đến cả sinh mạng. Thông thường, Thiên Không rơi vào cung hạn thì tác
họa mạnh mẽ hơn bình thường: các dự định đều thất bại, sự nghiệp
sa sút, mua bán thua lỗ, mất của thường do lường gạt, lừa đảo, có khi vướng vào tù
tội.
Tuần, Triệt đồng cung ở
Điền, Tài: dù Điền hay Tài có chính
tinh hay không, có cát tinh đi nữa thì cũng không quân bình được bất
lợi của cả Tuần lẫn Triệt đồng cung. Hai sao này hợp nhất phối hợp
phá hoại tài sản đến cùng. Gặp chúng, cá nhân không có di sản, dù
có cũng bán hết hoặc không thể thụ hưởng, thường phải tự lực lập
nghiệp nhưng có rồi lại dễ mất ngay vì họa, hoặc vì túng thiếu. Đây
là bộ sao điển hình của vô sản.
Kình Dương, Đà La hãm địa: cũng báo hiệu họa tài sản, dưới hình thức phá tán tổ nghiệp,
điền trạch cũng như tiền bạc. Đi với Không, Kiếp, Thiên Không, ý nghĩa
họa càng chắc chắn hơn và họa nhất định nặng hơn. Đặc biệt vào cung
hạn, nếu Kình Đà gặp Lưu Kình, Lưu Đà thì họa đến mau chóng và
khủng khiếp. Nếu Kình Đà và hai sao Lưu lại tọa thủ hoặc xung chiếu
vào Điền, Tài thì họa vào sản nghiệp hiện có thay vì di sản.
Hỏa Tinh, Linh Tinh: chỉ riêng mối họa lửa, dù Hỏa Linh đơn thủ hay hội họp với sát
hao tinh khác. Hai sao này đi chung với một số sao khác cũng mang ý
nghĩa tương tự như: Hỏa Kiếp Cơ, Hỏa Tang, Linh Hình Việt, Phi Hỏa, Cự
Hỏa, Cơ Hỏa, Hỏa Linh Tướng Binh. Chỉ riêng bộ sao Hỏa Tướng Binh hay
Linh Tướng Binh có nói ít nhiều đến nguyên nhân hỏa hoạn: đó là việc
gian phi đốt nhà, đốt ruộng, đốt hoa màu, hàng hóa.
Lưu Hà: thủy họa đối với tài sản, đi chung với Địa Không, Địa Kiếp chỉ
tại họa lớn: nước lụt đắm tàu, hoa màu úng thủy, hàng hóa bị ngập
nước ...
Đại Hao, Tiểu Hao: Trừ phi đắc địa ở Mão, Dậu (có tiền của dồi dào), Nhị Hao bao
giờ cũng phá tán của cải, hao hụt điền sản thường là do cái đà ăn
xài quá lớn không kìm hãm được nữa. Song Hao ở Điền, Tài thường
xuyên có chuyện tốn kém, lớn có nhỏ có và liên tiếp. Sự hao tán
của bộ sao này gần như triền miên. ở Điền, Nhị Hao ngụ ý phải lo
"một kiểng
hai huê". ở Tài thì luôn luông có chuyện phải tiêu lớn, tiêu nhỏ.
Nếu Thiên Không tối kỵ ở cung Quan thì Nhị Hao tối kỵ ở cung Tài và
cung Điền. Ngoài ra, về bệnh tật, Nhị Hao phải tốn vì một bệnh trầm
kha, tái đi tái lại nhiều lần, thường là bệnh về bộ máy tiêu hóa tương đối nặng.
Tướng, Binh, Kiếp hay Không: chỉ họa cướp của. Đóng ở Điền, Tài, đương số sẽ bị cướp đến
khảo của, phá nhà, tống tiền, có thể bị thanh toán. Nếu có thêm Tả
Hữu thì thường có nội gián, tòng phạm lâu la đông đảo. Bộ sao này
cũng nói lên trường hợp bị cưỡng bách đóng thuế bằng cách hành
hung, đe dọa sinh mạng hoặc bắt cóc đòi tiền chuộc. Trong trường hợp
có bắt cóc tống tiền thì thường có Thiên Hình đi kèm.
b. Những tiểu họa tài sản:
Binh, Tả, Hữu: có tòng phạm giúp đõ, chỉ dẫn, dụ dỗ, đánh lừa để lấy đồ
bằng mưu chước xảo quyệt. Có khi Tả Hữu còn chỉ tôi tớ trong nhà,
làm nội ứng chỉ điểm cho gian phi, hoặc chính người giúp việc trộm
cắp của chủ nhân. Bộ sao này cho thấy việc đánh cắp có tổ chức, có
kế hoạch.
Thiên Không: đứng riêng rẽ, sao này chỉ tên lưu manh, gian hùng, xảo quyệt, có
nghĩa tương tự như Phục Binh. Nếu cả hai cùng hội tụ thì đây là cách
gian phi họp đang, tác họa nhiều hơn.
Quan Phù, Thái Tuế, Quan Phủ,
Hóa Kỵ: chỉ hao tài sản do sự lường
gạt, phản bội, hoặc do kiện tụng mà hao hụt của cải, kiện tụng về
tài sản cụ thể như bị xử ép, chia của không sòng phẳng, thanh toán
không phân minh. ứng vào điền sản, những sao này cho thấy phải có
tranh chấp về đất đai, ruộng vườn, phải tốn tiền vì điền thổ mới
có của, phải kiện thưa mới đuổi được người cư ngụ bất hợp pháp mới
cất được nhà. Cũng có thể nhà, đất của mình không có lai lịch phân
minh, bị tố tụng, thưa kiện và có khi thất kiện phải mất đất, trả
nhà.
Thiên Hình: ở Điền, Tài, sao này chỉ họa của người bị bắt giam vì tài
sản, bị họa lụy vì tiền bạc hoặc nếu là điền sản thì có thể bị
tịch thu, tịch biên. Đây là trường hợp những người bị bắt để đổi
tiền chuộc mạng, của bọn khảo của, tống tiền, thu thuế bằng bạo
hành, đe dọa. Nếu đương số làm nghề tài chính, thì Hình sẽ ứng vào
các vụ biển thủ, quản lý sơ suất để mất tiền phải bị ra tòa, đền
tiền. Nếu ở cung Điền, nhà đất dễ bị tịch thu, sai áp, niêm phong do
một án tiết cá nhân, có liên quan đến của cải bất hợp pháp hoặc
đến uy thế chính trị suy sụp. Nếu ứng vào cơ thể có nghĩa thương
tích thì ứng vào điền trạch cũng có nghĩa bế tỏa như vậy. Bị Thiên
Hình, cơ xưởng, làm ăn có thể bị sai áp, quốc hữu hóa, trưng dụng,
trưng thu. Nếu có thêm sát tinh khác, đây có thể là đại họa.
Điếu Khách, Văn Xương, Văn
Khúc: chỉ họa hao tài vì đánh
bạc, thông thường có đi đôi với Song Hao, hoặc Khốc Hư, Tang Hổ, Xương
Khúc thì thỉnh thoảng có đỏ đen, còn Điếu Khách thì máu cờ bạc
quá nặng đến nỗi trở thành tập quán khó chừa, lấy đổ bát làm sinh
kế và chắc chắn cũng vì đổ bát mà tán tài, tán điền.
Hỏa, Linh với Song Hao: họa tài sản bắt nguồn từ bệnh nghiện thường là nghiện á phiện,
ma túy, rượu, rất nguy kịch cho của cải và sức khỏe. Không cần gì
phải có cả Hỏa và Linh với Song Hao, chỉ cần Hỏa hay Linh cũng đủ.
Đào, Hồng với Song Hao: họa tài sản do gái/trai tạo ra. Đây là hoàn cảnh của các chàng
hào hoa bị dại gái bị lừa gạt, phải chi khá nhiều để chu cấp cho
gái hoặc phụ nữ mê trai cũng chu cấp cho các chàng thất nghiệp. Đào
Hồng ở Tài, Điền thì phải tốn tiền ít nhiều cho tình nhân, nếu có
Song Hao thì chi phí lớn theo tỷ lệ túi tiền của nạn nhân.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Mỹ Ngân (XemTuong.net)